[A MOTHER BEAR IN COURT]
Pam Bostwick
— Lan Anh dịch —
***
Chỉ có hai tài sản vĩnh cửu mà chúng ta hi vọng để lại cho các con
Một là cội rễ; hai là đôi cánh
~Hodding Carter~
***
Một ngày tháng Ba u ám, thế giới của tôi sụp đổ.
Giấy triệu tập của cảnh sát gửi đến tận nhà. Do thị lực của tôi rất kém nên tôi phải nhờ một người bạn đọc dùm thông báo – chồng cũ của tôi muốn trông nom hai đứa con trai sinh đôi, Jason và Jeremy. Tôi như tê liệt vì hoài nghi, tự hỏi chuyện như thế này sao lại có thể xảy ra. Tôi đã muốn mối quan hệ với chồng cũ thật hòa thuận chỉ vì lợi ích của bọn trẻ. Tôi đi tới đi lui rồi bật khóc. Làm sao hai đứa con trai mười tuổi của chúng tôi có thể vượt qua những chuyện như thế này? Tôi phải kềm chế cảm xúc của mình. Bọn trẻ sẽ tan học ngay thôi. Nhưng tôi sẽ nói cho chúng nghe tin mới nhận như thế nào đây?
Suốt buổi tối, đầu tôi rất đau vì phải cố nén nước mắt. Tôi ráng tìm cách nào đó để đề cập chuyện này với các con. Cuối cùng, tôi ngồi bên mép giường đôi của chúng, giữ cho giọng nói bình tĩnh rồi đi thẳng vào vấn đề.
“Ba muốn đón hai con về ở chung.”
“Mẹ, con thích ở đây,” Jason lên tiếng. “Con có bạn và con muốn ở với Mẹ.”
“Con không ngại đi thăm Ba, nhưng con không muốn sống với Ba.” Jeremy nói thêm.
Ben, con trai lớn của tôi bước vào và lắng nghe câu chuyện. “Một người bạn của anh cũng đã từng trải qua chuyện này. Ra tòa mất rất nghiều thời gian,” nó nói. “Nhưng khi hai đứa lớn hơn – như anh chẳng hạn – hai đứa có thể tự quyết định mình muốn sống ở đâu.”
“Ba cũng sẽ đến tòa hả Mẹ?” Jeremy hỏi.
“Ừm,” tôi ngập ngừng trả lời.
“Mẹ sẽ không bỏ tụi con chứ…Mẹ?” đến lượt Jason hỏi.
Giọng nói van nài của Jason như xé nát trái tim tôi. Những cơn rùng mình cứ chạy dọc sống lưng. “Tất nhiên, Mẹ sẽ không bao giờ rời bỏ các con.” Rồi tôi hôn bọn trẻ. “Chúng ta sẽ tìm ra cách kết thúc việc này thôi.”
Ước gì tôi cũng tự tin như những lời tôi đã nói.
Chúng tôi tiếp tục cuộc sống hằng ngày, vờ như không có chuyện gì xảy ra. Mọi chuyện vẫn ổn cho đến khi những lá thư lại tiếp tục được gửi đến.
Một buổi chiều nọ, khi hai đứa từ trường về, chúng lại cãi nhau lúc đẩy mạnh cửa vào nhà.
“Anh không thích phân loại thư. Jeremy, đến lượt em mà.”
“Em làm hôm qua rồi. Đến lượt anh thì có.”
Jason miễn cưỡng nhặt chồng thư lên và giở ra xem. Nó rên rỉ. “Ôi, Mẹ ơi, lại một lá thư vừa to vừa dày từ tòa án nữa nè. Hình như mỗi ngày chúng ta lại nhận một lá thư như vậy hay sao ấy. Con ghét đi học về là phải đọc cái thứ vớ vẩn này về Mẹ.”
Cảm giác tội lỗi nhói lên trong lòng, các con tôi sao lại phải hứng chịu vết thương như thế này chỉ vì tôi không thể tự mình đọc những tờ thông báo. Trẻ con lẽ ra không nên chịu tổn thương từ cuộc chiến giữa cha mẹ chúng, một cơn ác mộng mà phải mất cả hai năm rưỡi để giải quyết. Nguyên nhân xuất phát từ việc tôi không xin xỏ bất cứ thứ gì, tôi chỉ đấu tranh cho bọn trẻ và cho những mong muốn của chúng.
Jason đọc cái gì đó một mình. “Mẹ, đây là cái thứ đáng vứt đi. Luật sư bảo rằng Ba đang cố gắng tách tụi con ra khỏi Mẹ vì Mẹ bị mù và không có khả năng làm mẹ.” Nó vòng tay ôm tôi, “Mẹ ơi, Mẹ là người mẹ tuyệt vời nhất. Mẹ cho tụi con mọi thứ và làm việc cực khổ cũng vì tụi con. Con yêu Mẹ.”
“Ba không thể mang tụi con đi chỉ vì mắt Mẹ kém. Mẹ đã chăm sóc tụi con thật tuyệt vời.”
Tôi nghĩ về những lời nói của hai đứa nhỏ trong lúc giúp chúng làm bài tập về nhà. Tôi cần phải tin tưởng các con mình.
Lát sau, tôi nghe tiếng chúng chơi đùa vui vẻ ngoài sân. Tôi đi lòng vòng trong phòng khách gọn gàng, gấp mớ quần áo của chúng vừa được giặt sạch sẽ, thơm mát và ngửi mùi thịt bò đang nấu trong lò vi ba. Một cảm giác ấm áp khi tôi nhìn những bức ảnh hai đứa con sinh đôi của mình, những bức ảnh mà tôi có thể thấy được nếu đưa gần sát mắt. Tôi sẽ chứng minh khả năng làm mẹ một cách thành công trước tòa. Tôi sẽ tiếp tục cho bọn trẻ mọi thứ tôi có. Tôi sẽ không để bất cứ ai làm tôi gục ngã hoặc khiến tôi mang cảm giác bất tài. Tôi kiên quyết.
Lần đầu tiên cho bọn trẻ đi thăm Ba chúng sau khi cuộc chiến bắt đầu khiến tôi gần như suy sụp. Buổi tối trước ngày chúng đi, tôi nhảy lên tấm bạt lò xo, chơi crocket và bóng chày với chúng. Tôi thật cảm ơn một bên mắt đã giúp tôi có thể nhìn thấy chút ít. Tôi muốn khắc sâu hình ảnh các con vào tâm trí. Tôi lo sợ phải để các con đến nhà Ba của chúng, sợ các con sẽ không quay về.
Tôi cố gắng can đảm khi ôm hai đứa thật chặt trước lúc lên máy bay. Cổ họng tôi đau buốt vì ngăn không cho nước mắt rơi.
“Các chàng trai của mẹ, cẩn thận nhé – Mẹ sẽ rất nhớ các con”, tôi thì thầm.
“Mẹ, tụi con sẽ ngoan,” Jeremay cam đoan một lần nữa. “Và tụi con sẽ về nhà sớm.” Jason nói thêm.
Trở về nhà, ngồi trong phòng của bọn trẻ, tôi giữ chặt cái nón bóng chày và khóc. Tôi ôm những quyển sổ có hình chúng lúc nhỏ. Giá như tôi có thể quay ngược thời gian về lại khoảnh khắc tôi đung đưa chúng trong vòng tay. Tôi mỉm cười khi nhớ lại cách duy nhất để nhận ra chúng khi còn là em bé là vuốt đầu chúng. Một đứa có tóc, còn đứa kia thì không. Tôi chạm vào chiếc cúp bóng đá và dải băng “Vận động viên bơi lội xuất sắc nhất” của Jason. Tôi sờ lên giấy khen của Jeremy và chiếc xe hơi mô hình bằng gỗ thông mà nó đoạt giải. Lòng tôi tràn ngập niềm tự hào.
Một tuần sau, tôi chào đón bọn trẻ về nhà bằng một cái ôm dài, một dĩa bánh quy với sữa và một tấm biểu ngữ to. Khi chúng tôi ngồi ăn bánh, hai đứa kể về chuyến đi của chúng.
“Tụi con vui lắm.” Jason nói. Rồi nó lo lắng thú nhận, “Mẹ ơi, Ba nói một ngày nào đó tụi con sẽ về ở với Ba.”
“Con không muốn đi!” Jeremy chạy ra khỏi bàn ăn và đóng sầm cửa.
“Con ra ngoài đánh banh đây.” Jason quay đầu ra ngoài sân.
Tôi thở dài. Điều duy nhất tôi có thể làm là ở đó vì các con và là khoảng trời bình yên mỗi khi chúng trở về. Tôi sẽ không bao giờ được cổ vũ cho các con trong các sự kiện thể thao, tổ chức tiệc sinh nhật hoặc tham dự buổi họp phụ huynh lần nào nữa – nếu đây là lần cuối cùng chúng tôi ở bên nhau. Tôi sẽ hạnh phúc được chơi bóng rổ và chui vào giường ngủ cùng các con, vì tôi không biết liệu mình có đánh mất những phút giây quý giá với chúng hay không.
Ký ức ùa về trong tôi: Jason là đứa ném còn Jeremy là đứa chụp bóng trong cùng một trận đấu. Tôi đã không thể nhìn thấy chúng trên sân bóng, thế nhưng sự suy giảm thị lực chẳng thể ngăn tôi hò hét to nhất sau khi nghe người khác thuật lại diễn biến trận đấu. Tôi nhớ cái lần ba mẹ con cùng ngủ dưới những vì sao, nhớ những thời điểm quan trọng nghe tin con chiến thắng , cùng chơi trò Red Rover [*] với các con và lũ bạn của chúng. Những ký ức cứ nhiều thêm, nhiều thêm nữa. Tôi sẽ trân trọng tất cả và sẽ tận dụng từng giây phút bên các con.
Ngày ra tòa rồi cũng đến. Tôi sẽ theo đuổi đến cùng – nhưng tôi cũng rất lo sợ kết quả.
Khi đến lượt mình, tôi đi đến ghế nhân chứng cùng với lòng quyết tâm. Ngón tay tôi bấu chặt lòng bàn tay. Không ai biết mạch tôi đập nhanh như thế nào, dạ dày tôi thắt lại như thế nào. Tôi phải hít thở chầm chậm và lặp đi lặp lại, “Mày đang đấu tranh cho các con vì bọn trẻ muốn sống với mày kia mà.”
Tôi cầu nguyện cho mình giữ được bình tĩnh khi tôi đối đáp một cách quả quyết, và cảm thấy dễ chịu vì không thể nhìn thấy rõ những người ngồi dưới.
Tôi vẫn giữ vững lập trường cho dù thẩm phán chất vấn mình.
“Xin hãy để Jason và Jeremy tự quyết định tương lai của chúng,” tôi cầu khẩn. “Điều này có thể ảnh hưởng cả cuộc đời hai đứa bé. Chúng đã trải qua chuyện này quá đủ rồi.”
Ngày cuối cùng của phiên xét xử, vị thẩm phán yêu cầu gặp riêng Jeremy và Jason trong phòng làm việc của ông.
“Mẹ đừng lo,” Jeremy nhẹ nhàng nói.
“Tụi con sẽ không sao mà.” Jason thêm vào.
Chúng là những dũng sỉ quả cảm trong suốt chặng đường đầy gian nan.
Khi thẩm phán quay lại phòng xử án, ông nói rằng ông đã phải rất cẩn trọng khi đưa ra quyết định. Ông hi vọng đêm về ông có thể ngủ ngon vì biết rằng ông đã làm những điều tốt nhất cho hai anh em sinh đôi. Tôi thật sự ấn tượng vì ông đã lắng nghe hai đứa con của tôi. Đó là tất cả những gì tôi cầu xin. Và ông đã gửi những đứa trẻ về nhà với tôi.
Tôi hiểu chúng tôi chiến thắng là nhờ vào phép nhiệm màu của Chúa, cùng với sự hỗ trợ của Jason và Jeremy. Chúng dám liều lĩnh tuyên bố, “Nếu sống với Ba, chúng con sẽ bỏ trốn và trở thành những kẻ phạm pháp.” Đoạn video ghi lại tình cảm gắn bó giữa mẹ con chúng tôi ắt hẳn đã làm lay động vị thẩm phán. Những bằng chứng xúc động thể hiện rõ mối quan tâm lớn nhất của hai đứa trẻ vẫn là được ở cùng mẹ có lẽ đã gây ảnh hưởng đến ông.
Mang cảm giác tự hào và được an ủi, tôi đã rời khỏi phòng xử án mà không nhìn lại. Hai đứa nhóc sinh đôi, các anh ruột của chúng và tôi mở tiệc với nhau. Tất cả chúng tôi đều thấy tự do và vui vẻ trở lại. Jason và Jeremy ôm chặt tôi như thể chúng sẽ không bao giờ để tôi ra đi. Tôi cũng ôm chặt chúng, mắt nhòe đi. “Mẹ rất mừng vì các con sẽ ở đây với Mẹ, ở nhà của chúng ta,” tôi bật khóc.
“Tụi con biết chúng ta sẽ chiến thắng nếu tụi con tự bảo vệ mình và bảo vệ Mẹ của chúng con,” Jason nói to. “Con rất vui vì ông thẩm phán đã hỏi tụi con muốn điều gì,” Jeremy kể lại.
Thử thách rồi sẽ qua nhanh thôi, nhưng các con trai và tôi sẽ không bao giờ quên. Tôi đã học được gì từ một trong những phiên tòa kinh khủng nhất mà tôi phải chịu đựng? Sự kiên nhẫn, tình yêu giữa người Mẹ và các con trai, và niềm tin vào Chúa. Một người Mẹ sẽ đấu tranh cho các con của mình như một con gấu mẹ bảo vệ con. Và những đứa con sẽ dẫn lối.
02.07.2010